Viêm Khớp Dạng Thấp Và Thoái Hóa Khớp – So Sánh, Phân Biệt
Viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp đều là những loại viêm khớp phổ biến với tỷ lệ mắc khá cao. Bệnh không chỉ gây ra hàng loạt các triệu chứng đau nhức, khó chịu, cứng khớp và hạn chế hoạt động mà đây đều là những căn bệnh dễ phát sinh biến chứng nguy hiểm. Vì vậy, để điều trị những căn bệnh này dứt điểm hiệu quả, bạn cần biết cách phân biệt, so sánh chúng một cách chính xác.
Thông tin chính về viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp
Viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp là hai loại viêm khớp phổ biến, có thể gây đau và tổn thương khớp. Cả hai bệnh lý này có chung một số triệu chứng, tuy nhiên bệnh viêm khớp dạng thấp có thể gây ảnh hưởng nhiều hơn một khớp và có xu hướng đối xứng ở hai bên cơ thể. Trong khi đó, thoái hóa khớp thường chỉ ảnh hưởng đến một khớp và chỉ xảy ra ở một bên cơ thể.
Viêm khớp dạng thấp là một bệnh lý tự miễn dịch, xảy ra khi hệ thống miễn dịch hoạt động không đúng cách. Khi cơ thể khỏe mạnh, hệ thống miễn dịch sẽ tấn công các tác nhân gây hại cho cơ thể, chẳng hạn như vi khuẩn và virus. Tuy nhiên, ở người viêm khớp dạng thấp, hệ thống miễn dịch sẽ tấn công các mô khỏe mạnh trong cơ thể, dẫn đến viêm và đau đớn.
Thoái hóa khớp không phải bệnh tự miễn. Bệnh xảy ra khi các sụn (mô xốp) ở giữa các khớp bị tổn thương, thường là do hao mòn theo thời gian. Điều này có thể khiến các xương cọ xát vào nhau, dẫn đến đau nhức.
Phân biệt viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp
Viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp là những căn bệnh phổ biến trong độ tuổi trung niên. Mặc dù những triệu chứng tương đối giống nhau, nhưng nếu chú ý thì người bệnh có thể nhận ra điểm khác biệt.
Vị trí vùng khớp tổn thương
- Viêm khớp dạng thấp: Vị trí bị tổn thương thường xuất hiện ở những khớp nhỏ với 4 biểu hiện chủ yếu là tình trạng sưng, đau, đỏ, bên ngoài bề mặt da bị nóng. Ở mức độ ngày càng nghiêm trọng thì vùng bị tổn thương có thể lan sang cả những khớp lớn hơn như khớp gối, khớp vai và mắt cá.
- Thoái hóa khớp: Vị trí tổn thương thường nằm tại những khu vực khớp chịu áp lực nhiều, hoặc thường xuyên cử động so với các khớp còn lại. Chủ yếu là xuất hiện những cơn đau ở cả 2 bên đầu gối. Mặc dù vậy cơn đau xuất hiện ở một bên khớp có khuynh hướng nặng hơn bên còn lại.
Nguyên nhân gây bệnh
Khớp chứa các mô sụn bảo vệ và ngăn ngừa ma sát giữa các xương. Các bệnh viêm xương khớp có thể làm tổn thương hoặc hư hỏng các mô sụn này. Nguyên nhân phổ biến bao gồm:
- Viêm khớp dạng thấp:
Viêm khớp dạng thấp là bệnh tự miễn xuất hiện khi hệ thống miễn dịch tấn công nhầm vào các mô khỏe mạnh bên trong khớp.
Các bác sĩ không rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Tuy nhiên, di truyền học và các yếu tố tác động của môi trường, bao gồm nhiễm virus hoặc hút thuốc là có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh thường bao gồm:
- Là phụ nữ
- Trên 40 tuổi
- Có lịch sử gia đình viêm khớp dạng thấp
- Hút thuốc
- Nhiễm virus
- Hút thuốc lá
- Thoái hóa khớp:
Nguy cơ mắc bệnh thoái hóa khớp tăng dần theo thời gian, khi các sụn khớp bảo vệ hao mòn và các xương ma sát vào nhau. Sự hao mòn này có thể liên quan đến các chuyển động lặp lại nhiều lần, chẳng hạn như trong các hoạt động thể thao, gây áp lực lên các khớp.
Các yếu tố nguy cơ bao gồm:
- Tuổi tác cao
- Béo phì
- Từng bị chấn thương trong quá khứ
- Tính chất nghề nghiệp liên quan đến các chuyển động lặp lại nhiều lần
- Di truyền
- Có xương biến dạng do tác động hoặc dị tật bẩm sinh
Đặc điểm cơn đau khớp
- Thoái hóa khớp: Cơn đau thường diễn biến theo kiểu cơ học, mức độ đau tăng khi vận động và thuyên giảm khi nghỉ ngơi. Sau khi ngủ dậy hoặc sau thời gian làm việc, bệnh nhân có thể bị cứng khớp và khó cử động khớp vào buổi sáng. Thời gian đau chỉ kéo dài khoảng 15 – 30 phút, sau khi vận động hiện tượng này giảm.
- Viêm khớp dạng thấp: Ban đầu là triệu chứng sưng và đau khớp, sau đó là tình trạng sưng tấy, hạn chế chuyển động. Các biểu hiện đau nhức và cứng khớp thường xảy ra vào buổi sáng sau khi ngủ dậy. Ở giai đoạn nặng, tình trình cứng khớp có thể kéo dài hơn 1 giờ.
Dấu hiệu nhận biết
Cả viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp đều có một số dấu hiệu chung, chẳng hạn như:
- Đau khớp
- Cứng khớp
- Sưng tấy, nhưng viêm khớp dạng thấp nghiêm trọng hơn
- Hạn chế khả năng vận động ở các khớp bị ảnh hưởng
- Các triệu chứng trở nên nghiêm trọng hơn vào buổi sáng
Mặc dù có một số triệu chứng chung, tuy nhiên người bệnh có thể phân biệt thoái hóa khớp và viêm khớp dạng thấp thông qua các điểm khác biệt như:
Thoái hóa khớp:
- Đau ở khớp bị ảnh hưởng sau khi thực hiện các hoạt động lặp lại thường xuyên
- Cứng khớp vào buổi sáng và kéo dài ít hơn 30 phút
- Đau khớp trở nên nghiêm trọng hơn vào cuối ngày
- Sưng, nóng khớp và cứng khớp bị ảnh hưởng sau một thời gian dài không hoạt động
- Có thể phát triển gai xương và gây hạn chế khả năng hoạt động
Viêm khớp dạng thấp:
- Đau đớn nghiêm trọng
- Sưng hoặc tràn dịch khớp
- Cứng khớp
- Đỏ và ấm ở các khớp bị ảnh hưởng
- Hạn chế phạm vi hoạt động
- Cứng khớp vào buổi sáng kéo dài hơn 1 giờ
- Thường gây ảnh hưởng đến các khớp nhỏ trong cơ thể, chẳng hạn như khớp ngón tay hoặc ngón chân
- Xuất hiện các nốt thấp khớp
- Gây ảnh hưởng đến các đối xứng ở hai bên cơ thể, chẳng hạn như hai bên đầu gối
- Có thể gây ảnh hưởng đến các cơ quan khác ngoài khớp, chẳng hạn như phổi, tim và thận
Ngoài ra, đôi khi viêm khớp dạng thấp có thể dẫn đến một số biến chứng toàn thân, chẳng hạn như:
- Mệt mỏi
- Sốt
- Ăn mất ngon
- Sụt giảm cân
Đối tượng mắc bệnh
Cả hai bệnh lý đều có thể gặp ở đa dạng các đối tượng, đặc biệt đều có xu hướng xuất hiện ở người già hoặc phụ nữ trung niên nhiều hơn do có liên quan đến các yếu tố như mang thai, sinh nở hay sự thay đổi hormone. Bên cạnh đó, những người thừa cân béo phì cũng là đối tượng có nguy cơ cao mắc hai bệnh lý này.
Tuy nhiên viêm khớp dạng thấp có tỷ lệ trẻ em mắc bệnh nhiều hơn thoái hóa khớp do có liên quan đến yếu tố di truyền. Ngược lại, những người từng có tiền sử chấn thương thường có khả năng bị thoái hóa khớp cao hơn.
Biến chứng
Nhìn chung cả hai bệnh lý đều gây ra những ảnh hưởng vô cùng trầm trọng cho cơ thể khiến sức khỏe suy giảm nhanh chóng. Cơ thể không chỉ mệt mỏi làm giảm khả năng vận động mà còn có nguy cơ mắc thêm rất nhiều bệnh lý nguy hiểm khác. Tuổi thọ của những người mắc bệnh này cũng có xu hướng thấp hơn rất nhiều.
- Viêm khớp dạng thấp
Điều trị bệnh không nhanh chóng kịp thời có thể gây ra những ảnh hưởng sau
-
- Khớp bị biến dạng và cản trở khả năng làm việc, đi lại, cầm nắm
- Biến chứng ảnh hưởng trên toàn thân
- Có nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch cao gấp 4 lần so với những người không mắc bệnh
- Da lốm đốm không đều màu
- Tăng nguy cơ mắc các bệnh lý như loãng xương, cao huyết áp, bệnh mạch vành, đái tháo đường hay lở loét tiêu hóa.
- Có thể làm suy giảm chức năng tại thận
- Suy giảm sức đề kháng nên dễ mắc nhiều bệnh hơn
- Có thể dẫn đến hội chứng khô mắt và gây mù lòa
- Thoái hóa khớp
Các tiến triển của thoái hóa khớp khá chậm tuy nhiên nếu phát hiện quá muộn cũng có thể khiến các sụn khớp bị phá hủy trầm trọng, thậm chí có thể phải tiến hành thay sụn khớp mới trong một số trường hợp. Biến chứng của bệnh như sau
-
- Cản trở chức năng vận động trầm trọng
- Hình thành gai xương
- Có nguy cơ tàn phế cao
- Hoại tử xương.
- Gãy xương do áp lực.
- Chảy máu hoặc nhiễm trùng trong khớp.
- Tổn thương gân và dây chằng xung quanh khớp.
- Các bệnh lý xương khớp liên quan như gout
- Lo âu và trầm cảm:
- Tăng cân béo phì khiến bệnh trầm trọng hơn.
So với viêm khớp dạng thấp, thoái hóa khớp có nguy cơ tàn tật cao hơn do xương khớp đã bị bào mòn quá trầm trọng không thể khắc phục. Trong trường hợp muốn điều trị có thể phải thay khớp nhân tạo nhưng có chi phí vô cùng cao đồng thời vẫn không thể đảm bảo chức năng vận động như bình thường.
Chẩn đoán viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp
Thực tế nếu chỉ thông qua các triệu chứng cơ bản bên ngoài rất khó để có thể phân biệt bệnh, kể cả với người có chuyên môn. Đồng thời còn có rất nhiều bệnh lý về xương khớp liên quan có các triệu chứng giống vậy nên việc đến bệnh viện chuyên khoa để làm các xét nghiệm kiểm tra chẩn đoán là vô cùng cần thiết.
Thông qua các kiểm tra sơ bộ, bác sĩ sẽ chỉ định các phương pháp xét nghiệm hình ảnh hay xét nghiệm máu để kiểm tra chính xác bệnh lý cũng như mức độ tiến triển bệnh để có thể đưa ra phác đồ điều trị phù hợp.
Các phương pháp thường được chỉ định như
- Chụp X quang bệnh nhằm xác định mức độ bào mòn, hẹp khe khớp, nếu thấy có xuất hiện gai xương thì có nguy cơ mắc thoái hóa khớp cao hơn.
- Siêu âm khớp với viêm khớp dạng thấp tỷ lệ bào mòn xương có tỷ lệ 22,4% và có xu hướng tiến triển nhanh đồng thời với thoái hóa khớp giúp xác định độ dày của sụn, có xuất hiện gai xương hay các tổn thương tràn dịch khớp hay không.
- Chụp cộng hưởng tại các khớp bị tổn thương để phát hiện tình trạng tràn dịch khớp, viêm màng hoạt dịch..
- Xét nghiệm máu nhằm đo độ lắng đọng máu hay các yếu tố nhiễm khuẩn, thường được chỉ định chủ yếu với viêm khớp dạng thấp. Hầu như xét nghiệm máu dành cho thoái hóa khớp không đem lại tác dụng.
- Một số xét nghiệm khác có thể được chỉ định như nội soi khớp, sinh hóa khớp hay xét nghiệm dịch khớp.
Sau khi xác định chính xác bệnh, nguyên nhân gây bệnh, tình trạng bệnh bác sĩ sẽ tiến hành lên phác đồ điều trị phù hợp, người bệnh cần đảm bảo tuân thủ theo hướng dẫn từ bác sĩ để có thể cải thiện bệnh nhanh chóng nhất, phòng ngừa các biến chứng có thể xảy ra.
Điều trị viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp
Cho đến nay vẫn chưa có biện pháp điều trị dứt điểm hai loại bệnh viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp. Tại các chuyên khoa xương khớp có phác đồ điều trị từng loại bệnh, mục tiêu điều trị thường bao gồm giảm viêm, ngăn ngừa tổn thương và cải thiện các chức năng thể chất.
Ngoài ra việc điều trị viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp cũng sẽ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh nên thuốc và hình thức điều trị đều không giống nhau.
Viêm khớp dạng thấp
Người bệnh được chỉ định sử dụng các loại thuốc chống viêm, thuốc giảm đau. Hoặc phụ thuộc vào các triệu chứng tự miễn bị ảnh hưởng kèm theo mà bác sĩ sẽ kê đơn thuốc sinh học để giảm thiểu những tổn thương cho người bệnh. Các loại thuốc được dùng trong điều trị bệnh lý này gồm:
- Thuốc chống viêm không chứa steroid (NSAID) giúp hỗ trợ giảm đau và chống viêm.
- Nhóm Corticosteroid dùng để chống viêm cho trường hợp nghiêm trọng, đồng thời hỗ trợ điều chỉnh hệ thống miễn dịch.
- Nhóm thuốc chống thấp khớp tác dụng chậm (DMARDs), hoặc các loại thuốc sinh học giúp làm chậm ảnh hưởng của bệnh đến các cơ quan trong cơ thể.
- Thuốc Acetaminophen hiệu quả trong việc giảm đau tạm thời nhưng không thể chống viêm.
Thoái hóa khớp
Thoái hóa khớp là căn bệnh gây ra do vấn đề tuổi tác hoặc lao động quá sức, vì thế cách khắc phục cơ bản là giảm đau và cải thiện chức năng vận động của khớp. Điều trị thoái hóa khớp kết hợp nhiều phương pháp như:
- Sử dụng kem bôi, sử dụng gel hoặc miếng dán để giảm đau tại chỗ.
- Nhóm thuốc Acetaminophen có tác dụng giảm đau.
- Dùng các loại thuốc chống trầm cảm như Duloxetine giúp cải thiện cơn đau mãn tính.
- Tiêm thuốc Corticosteroid ngoài màng cứng.
- Áp dụng phương pháp vật lý trị liệu tăng cường cơ bắp và cải thiện các chức năng
Nếu như cơn đau trở nên nghiêm trọng, bệnh nhân có thể được chỉ định sử dụng thuốc Opioid để giảm đau. Tác dụng phụ của nhóm thuốc này là khả năng gây nghiện. Ở một số người, thuốc có thể gây ra tình trạng đau dạ dày, táo bón và một số tác dụng phụ khác.
Điểm chung trong điều trị viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp là đều cần đến sự hỗ trợ của các bài tập vật lý trị liệu và trị liệu cơ năng. Từ đó cải thiện sức khỏe khớp, giúp việc đi lại và sinh hoạt bình thường. Ngoài ra người bệnh cũng được hướng dẫn thực hiện các bài tập thích hợp, kiểm soát cân nặng và xây dựng một lối sống lành mạnh mới kiểm soát bệnh tránh phát sinh biến chứng.
Ở những cấp độ bệnh nặng hơn, khi khớp chịu tổn thương quá mức thì bệnh nhân sẽ được hội chẩn về phương pháp phẫu thuật. Đối với viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp đều có thể trực tiếp điều trị thương tổn cũng như phục hồi khả năng hoạt động của bộ phận này. Mặc dù vật phương pháp phẫu thuật vẫn là phương án cuối cùng được áp dụng do thủ thuật thay khớp, cắt bỏ bao hoạt dịch, nối gân… đều tiềm ẩn nguy hiểm, biến chứng hậu phẫu.
Phẫu thuật không thật sự cần thiết cho hầu hết trường hợp thoái hóa khớp hay viêm khớp dạng thấp. Bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật khi biến chứng phát sinh nhiều hướng hoặc điều trị nội khoa áp dụng nhưng không hiệu quả. Trong quá trình phẫu thuật, bệnh nhân có thể gặp phải các rủi ro, chẳng hạn như xuất huyết, nhiễm trùng hoặc tê liệt do dây thần kinh xung quanh bị tổn thương.
Viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp có thể điều trị cải thiện và ngăn ngừa các triệu chứng. Đến bệnh viện hoặc liên hệ với bác sĩ nếu người bệnh gặp các triệu chứng hoặc nghi ngờ bệnh viêm khớp.
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!